Thử nghiệm lâm sàng và phê duyệt Telaprevir

Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát (PRISE3) ở những bệnh nhân điều trị chuẩn bằng peginterferon alfa-2a và ribavirin đã thất bại, điều trị lặp lại với việc bổ sung telaprevir có nhiều khả năng đáp ứng virus kéo dài hơn (SVR) so với điều trị lặp lại bằng peginterferon alfa-2a và ribavirin đơn độc.[5] Ở những bệnh nhân dùng peginterferon alfa-2a và ribavirin trong một năm, việc bổ sung telaprevir trong 24 tuần đạt được SVR là 53% so với 14% ở những bệnh nhân không dùng telaprevir. Trong nghiên cứu đó, điều trị ngắn chỉ với ba tháng telaprevir và sáu tháng điều trị bằng peginterferon alfa-2a và ribavirin đạt được SVR là 51%. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát thứ hai (REALIZE) bệnh nhân đã tái phát trước đó hoặc chỉ có đáp ứng một phần, tỷ lệ đáp ứng virus cao hơn ở những bệnh nhân được điều trị bằng telaprevir (83% đến 88%) so với 24% ở nhóm chứng.[6] Trong một thử nghiệm thứ ba (ADVANCE) cho những bệnh nhân chưa được điều trị trước đó,[7] bệnh nhân dùng telaprevir có SVR (69% đến 75%) so với 44% ở nhóm đối chứng.

Vào ngày 28 tháng 4 năm 2011, Ủy ban Tư vấn về Thuốc chống vi-rút của FDA đã bầu chọn 18-0 để đề xuất telaprevir cho những người mắc bệnh viêm gan C mạn tính kiểu gen 1. Ủy ban đã xem xét dữ liệu thử nghiệm lâm sàng (bao gồm các phát hiện từ các nghiên cứu giai đoạn III) cho thấy rằng việc kết hợp telaprevir với pegylated interferon và ribavirin tạo ra tỷ lệ chữa khỏi cao hơn và trong thời gian ngắn hơn so với điều trị tiêu chuẩn đơn thuần. Sự cải thiện này là đáng chú ý nhất đối với những bệnh nhân khó điều trị bao gồm cả những người có HCV genotype 1, những người bị xơ gan và những người không đáp ứng với liệu pháp điều trị dựa trên interferon trước đó. Boceprevir của Merck, cũng là một antihepatitis C ma túy mới, đã được đưa ra một đề nghị tích cực bởi các ủy ban tương tự, vào ngày hôm trước.[8] Telaprevir đã được phê duyệt hoàn toàn để sử dụng tại Hoa Kỳ vào tháng 5 năm 2011.[9]

Giả thuyết rằng di truyền vật chủ đóng một vai trò thiết yếu trong khả năng không chỉ xóa nhiễm viêm gan C cấp tính mà còn đạt được đáp ứng virus học bền vững (SVR) đối với liệu pháp dựa trên interferon đã được chứng minh với phát hiện gần đây về hai đa hình đơn nucleotide trên nhiễm sắc thể 19. Các biến thể trong alen nhỏ rs8099917 và đa hình proximate rs12979860, ngược dòng 3 kb của gen interleukin (IL)-28B, mã hóa cytokine IFN-của virus chống vi rút nội sinh. Tần số khác nhau của các alen này trong các nhóm dân tộc trên toàn thế giới cũng có thể giải thích tỷ lệ khác nhau của SVR giữa chúng. Thử nghiệm cho một trong những đa hình này hiện có sẵn trên thị trường và có thể đóng vai trò là một yếu tố dự báo mạnh mẽ về cơ hội đạt được SVR của bệnh nhân. Có lẽ quan trọng hơn, xét nghiệm có thể giúp cá nhân bác sĩ lâm sàng điều chỉnh thời gian và thậm chí là loại trị liệu thích hợp nhất cho một bệnh nhân, mới nhiễm virus viêm gan C mạn tính.